Định nghĩaMạng ngang hàng (p2p) là mạng mà trong đó hai hay nhiều máy tính chia sẻ tập tin và truy cập các thiết bị như máy in mà không cần đến máy chủ hay phần mềm máy chủ.Hi ở dạng đơn giản nhất, mạng p2p được tạo ra bởi hai hay nhiều máy tính được kết nối với nhau và chia sẻ tài nguyên mà không phải thông qua một máy chủ dành riêng. Mạng p2p có thể là kết nối tại chỗ – hai máy tính nối với nhau qua cổng USB để truyền tập tin. P2p cũng có thể là cơ sở hạ tầng thường trực kết nối 5-6 máy tính với nhau trong một văn phòng nhỏ bằng cáp đồng. Hay nó cũng có thể là một mạng có quy mô lớn hơn nhiều, dùng các giao thức và ứng dụng đặc biệt để thiết lập những mối quan hệ trực tiếp giữa người dùng trên internet.Û́ng dụng ban đầu của mạng p2p là sự tiếp nối của việc triển khai các máy tính cá nhân độc lập vào đầu những năm 1980. Khác với máy tính lớn (cỡ mini) ngày ấy có vai trò máy tính xử lý và lưu trữ trung tâm phục vụ các tác vụ xử lý văn bản và những ứng dụng khác cho các thiết bị đầu cuối (terminal), PC đời mới lúc đó có riêng đĩa cứng và CPU. Nó còn có sẵn các ứng dụng, nghĩa là nó có thể triển khai trên bàn làm việc và thực sự hữu dụng mà không cần phải nối đến máy tính lớn.
Người dùng cảm thấy được giải phóng khi có máy tính dùng riêng trên bàn làm việc của mình. Nhưng sau đó, họ thấy cần phải có phương thức để chia sẻ tập tin và máy in. Phương pháp dễ dàng nhất là lưu tập tin trên đĩa mềm và mang nó đến cho người nhận hay gửi đi bằng đường thư nội bộ.
Mạng thủ côngThực tế đó đã dẫn đến thuật ngữ mạng thủ công (sneaker net). Điểm cuối thường gặp nhất của mạng thủ công tiêu biểu là nhân viên có máy in nối vào máy tính của họ.Tuy sneaker net là sự pha trộn kỳ lạ của công nghệ mới và dạng vận chuyển cổ lỗ sĩ nhất nhưng mô hình này lại là nền tảng thực sự cho những nhóm làm việc nhỏ p2p ngày nay.Trong khi mô hình tính toán tập trung hoá ban đầu và hệ thống client/server hiện nay nhìn chung được coi như môi trường bị điều khiển, trong đó mỗi cá nhân dùng máy tính theo cách thức do cấp cao hơn quyết định, mạng làm việc nhóm p2p cổ điển lại hoàn toàn mở về chia sẻ tập tin và thiết bị.Nói chung mạng p2p văn phòng và gia đình dùng chuẩn Ethernet (10Mb/s) hay Fast Ethernet (100M b/s) và kết nối theo mô hình hub-and spoke. Cáp đồng category 5 (xoắn đôi) nối giữa các PC và Ethernet hub hay switch, cho phép người dùng PC nối mạng này truy cập chia sẻ đĩa cứng, máy in hay ngay cả kết nối internet.
Cả khách lẫn chủMỗi PC được kết nối đồng thời vừa làm máy chủ vừa làm máy khách. Không có hệ điều hành mạng chuyên dụng chạy trên máy tính mạnh để hỗ trợ các ứng dụng đặc biệt của phía máy chủ như dịch vụ thư mục (cơ sở dữ liệu chuyên dụng kiểm soát người nào truy cập vào cái gì).Trong môi trường p2p, quyền truy cập được điều khiển bằng cách thiết lập các thông số về quyền chia sẻ trên từng máy tính.Ví dụ, nếu PC của người dùng A kết nối với một máy in mà người dùng B muốn truy cập đến, người dùng A phải cài đặt máy của mình để cho phép (chia sẻ) truy cập đến máy in. Tương tự nếu người dùng B muốn truy cập đến thư mục, tập tin hay thậm chí toàn bộ đĩa cứng trên PC của người dùng A. A phải cho phép việc chia sẻ tập tin trên PC của mình. Việc truy cập máy in hay thư mục trên mạng p2p văn phòng có thể được kiểm soát chặt chẽ hơn bằng cách dùng mật khẩu cho các nguồn tài nguyên này.
Computerworld 08/04/2002
Mạng Ngang Hàng Trên InternetMặc dù internet rất giống với mạng khách/chủ nhưng có những công nghệ chia sẻ tập tin cho phép người dùng tạo ra môi trường p2p trên mạng internet công cộng.Trường hợp gây được chú ý lớn nhất là mạng của Napster, họ đã đạt được quy định của chính phủ Mỹ cho phép người dùng tìm kiếm trên đĩa cứng của nhau những tập tin có bản quyền. Tuy nhiên, Napster không hoàn toàn là mạng p2p. Người dùng của dịch vụ này phải đăng nhập vào một máy chủ để tìm kiếm tựa bản nhạc, sau đó máy chủ sẽ chỉ đến PC của một người dùng khác, ở đâu đó trên internet có chứa tập tin muốn tìm. Tuy nhiên, một khi đã tìm thấy tập tin thì việc tải xuống xảy ra ngang hàng từ PC này sang PC khác.Một hệ thống chia sẻ tập tin p2p khác bằng internet là Gnutella, đây là một giao thức vốn do hãng Nullsoft phát triển nhưng sau đó được phổ biến trên những website công cộng khi Nullsoft bị America Online mua vào năm 1999.Ứng dụng của người dùng cuối tương thích Gnutella tạo ra cái gọi là tác nhân (servent) Gnutella khi cài đặt trên PC của người dùng cuối. Khi đăng nhập vào internet, servent tự công bố chúng cho những servent khác và cũng nhân bản các yêu cầu tìm kiếm tập tin được lưu trên đĩa cứng của người dùng. Kết quả truy tìm được “đưa” cho người dùng thông qua ứng dụng servent, người dùng chọn tập tin họ cần và sau đó tải xuống trực tiếp từ PC lưu giữ tập tin này qua internet.
http://www.pcworld.com.vn/articles/cong-nghe/cong-nghe/2004/01/1184904/peer-to-peer-network-mang-ngang-hang/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét